VNDirect: Ngành ngân hàng sẽ là đại diện tiêu biểu cho sự hồi sinh kinh tế Việt Nam năm 2022

Trong báo cáo cập nhật ngành mới công bố, Chứng khoán VNDirect dự báo tăng trưởng lợi nhuận của các ngân hàng sẽ chậm lại trong năm 2021.

Về tăng trưởng tín dụng, VNDirect cho rằng sẽ có sự cải thiện trong quý IV/2021 và ít nhất đạt mức 12% cho cả năm 2021. Kỳ vọng này dựa trên việc Việt Nam đã bình thường hóa kể từ tháng 10 kết hợp với các gói hỗ trợ hiện tại của Chính phủ và lãi suất cho vay thấp sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp quay trở lại hoạt động và vay mới phục vụ cho hoạt động của họ, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng.

Song, nhóm phân tích dự báo việc cải thiện NIM sẽ chậm lại trong nửa cuối năm 2021 và thậm chí giảm vào năm 2022 do các ngân hàng đã được yêu cầu thực hiện nghiêm túc việc hạ lãi suất cho vay để hỗ trợ khách hàng.

Mặt khác, VNDirect nhận thấy chất lượng tài sản của các ngân hàng có suy giảm nhẹ với tỷ lệ nợ xấu trung bình tăng lên 1,64% vào cuối quý 3/2021 từ mức 1,49% vào cuối quý 2/2021. Ngoài ra, nợ tái cơ cấu toàn hệ thống đã tăng lên 250 nghìn tỷ đồng (2,5% tín dụng hệ thống) vào cuối tháng 11 từ mức 227 nghìn tỷ đồng vào cuối tháng 8, theo NHNN.

"Do đó, các ngân hàng sẽ phải cân bằng lại giữa mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận và kiểm soát chất lượng tài sản trong bối cảnh NIM thấp hơn và khẩu vị rủi ro ngày càng tăng", báo cáo của VNDirect cho hay.

Trong năm 2022, VNDirect kỳ vọng nền kinh tế sẽ tăng tốc nhờ xuất khẩu tăng trưởng mạnh mẽ, nhu cầu phục hồi và các chính sách tài khóa hỗ trợ. Đồng thời, ngân hàng sẽ là đại diện tiêu biểu cho sự hồi sinh kinh tế Việt Nam.

Trong bối cảnh tín dụng phục hồi yếu, nhóm phân tích cho rằng các ngân hàng có khả năng đẩy mạnh tín dụng, hoặc có khả năng để nâng cao tỷ trọng thu nhập ngoài lãi (thông qua bancasurance, dịch vụ ngân hàng đầu tư, kinh doanh ngoại hối…) sẽ là những ngân hàng chiếm ưu thế.

Bên cạnh đó, tình trạng cạnh tranh tiền gửi ít gay gắt hơn và thanh khoản dồi dào, VNDirect đánh giá cao các ngân hàng có khả năng thúc đẩy vay cá nhân để có được lợi suất tài sản tốt hơn.

Ngoài ra, do lo ngại về khả năng nợ xấu tăng cao trong một vài quý tiếp theo, nhóm phân tích nhận định tích cực đối với các ngân hàng có chất lượng tài sản vững chắc và có nguồn dự phòng dồi dào.

Mặt khác, rủi ro chính là việc xuất hiện các biến thể COVID-19 mới cản trở sự hồi phục của nền kinh tế và lạm phát cao hơn dự kiến cản trở việc mở rộng cho vay.
 

Mạnh Đức
Theo Doanh nghiệp và Tiếp thị

              

Thông tin khác
Kỳ hạn Cuối kỳ Hàng tháng
Không kỳ hạn 0.20 0.20
1 tuần 0.20 0.20
2 tuần 0.20 0.20
3 tuần 0.20 0.20
1 tháng 4.00 4.00
2 tháng 4.10 4.00
3 tháng 4.20 4.10
4 tháng 4.20 4.10
5 tháng 4.20 4.10
6 tháng 6.00 5.70
7 tháng 6.10 5.90
8 tháng 6.10 5.90
9 tháng 6.30 6.10
10 tháng 6.30 6.15
11 tháng 6.30 6.15
12 tháng 6.80 6.50
13 tháng 6.80 6.50
18 tháng 6.95 6.50
Ngoại tệ Mua vào Bán ra
  Mua vào Bán ra
Vàng SJC 1L - 10L
55.080 55.450
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ
51.800 52.400
Vàng nhẫn SJC 99,99 0,5 chỉ
51.800 52.500
Vàng NT 99,99%
51.400 52.100
Vàng NT 99%
50.584 51.584
Vàng NT 75%
37.229 39.229
Vàng NT 58,3%
28.527 30.527
Vàng NT 41,7%
19.878 21.878
Đường dây nóng 0903 010 487